Hiển thị các bài đăng có nhãn Tàu cộng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tàu cộng. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2014

Ngôn ngữ ngoại giao "mới" của Tàu

Tôi mới viết một bài cho Asiasentinel.com, bàn về loại ngôn ngữ mất lịch sự của các quan chức Tàu. Tàu muốn trở thành cường quốc nhưng hình như họ rất bất an. Hễ ai nói gì không theo quan điểm của họ thì họ phùng mang trợn mắt nói lại cứ như dân giang hồ (thật ra, dân giang hồ còn lịch sự hơn quan chức Tàu).


Trong bài này tôi điểm qua những thứ ngôn ngữ [mà nói cảm tính là] mất dạy. Chẳng họ ngông nghênh tuyên bố rằng họ sang VN để lên lớp chứ không đàm phán.  Báo chó Tàu thì xem VN là đưa con hoang – thật không còn gì mất dạy hơn! Nhưng lịch sử mất dạy của Tàu thì trải dài từ Phi Luật Tân, sang đến Úc, và ASEAN, Singapore, v.v. Nói chung, chỗ nào có quan chức Tàu tham gia là chỗ đó xuất hiện thứ ngôn ngữ trịch thượng và thô lỗ. 

Một trong những điểm mà quan chức Tàu thích đề cập đến là “Tàu là một nước lớn”. Thật ra, cái quan niệm “nước lớn” này không phải chỉ mới xuất hiện gần đây, mà đã xuất hiện từ thời xa xưa khi các vua Tàu xem các nước chung quanh là nhỏ và "man di". Có lẽ cái thói ngạo mạn này đã ăn sâu vào máu của Tàu nên ngày nay chúng ta thấy “nước lớn” lại xuất hiện.

Bản tiếng Việt:  

Một trong những đặc điểm đáng chú ý của giới quan chức Trung Cộng (TC) trong các hội nghị quốc tế là ngôn ngữ họ sử dụng. Đó là loại ngôn ngữ đần và láo xược. Loại ngôn ngữ đó chẳng giúp gì cho TC trong nỗ lực muốn được công nhận như là một thành viên văn minh trong cộng đồng ngoại giao thế giới.

Trong giới quan chức và ngoại giao TC, lịch sự và tôn trọng có vẻ như trống vắng trong các bài nghị luận của họ ở các hội nghị quốc tế. Chẳng hạn như sau khi kết thúc chuyến thăm Việt Nam, Dương Khiết Trì (Yang Jiechi), một Uỷ viên Quốc vụ viện đặc trách đối ngoại, tuyên bố với báo chí TC rằng mục tiêu của ông đến VN là lên lớp chứ không phải đàm phán.

Một bộ phận trong hệ thống truyền thông TC thậm chí còn gọi Việt Nam là “đứa con trai hoang đàng”! Những bình luận như thế được thốt ra ngay trong lúc một sự đối đầu nguy hiểm giữa TC và VN đang diễn ra ở Hoàng Sa, vùng biển đang trong vòng tranh chấp. Ngôn ngữ của các quan chức TC rất ư là trịch thượng và hỗn xược. Thật vậy, đối với người Việt Nam, câu nói “đứa con trai hoang đàng” không chỉ mang tính xúc phạm mà còn phảng phất một loại chủ nghĩa thuộc địa bệnh hoạn.

Điều thú vị là đối với một quốc gia muốn trở thành siêu cường, khi chiếc giày ở trong chân người khác, con rồng TC có thể rất mong manh và rất dễ bị tổn thương. Vài năm trước đây, Fang Kecheng, một blogger và sinh viên cao học về báo chí thuộc Đại học Bắc Kinh, đếm số lần mà viên phát ngôn của Bộ Ngoại giao TC nói rằng người TC bị xúc phạm hay tổn thương (“feelings had been hurt.”) Theo thống kê của Fang, TC bị tổn thương ít nhất là 140 lần bởi ít nhất 42 nước, kể cả những nước ít biến đến như Iceland và Guatemala, và cả một nhúm tổ chức kể từ năm 1949 khi cộng sản đuổi Trung Hoa Quốc Dân Đảng ra khỏi Trung Hoa lục địa.
Có thể tóm lược phát biểu mang tính tổn thương của TC theo công thức như sau “Sự việc / phát biểu thể hiện sự can thiệp trắng trợn vào nội bộ, gây tổn thương nghiêm trọng đến cảm xúc của người Tàu, và gây thiệt hại đến cơ sở chính trị trong mối quan hệ song phương giữa TC và [nước xúc phạm].” Có thể nói rằng hầu hết phản ứng của TC chỉ nằm trong câu nói tiêu biểu này.

Giáo sư Victor Mair là một nhà ngôn ngữ học của Đại học Pennsylvania, người chủ trương trang ngôn ngữ “The Language Log” làm một thống kê thú vị. Ông dùng Google để đếm số lần câu “hurts the feelings of the Chinese people” (tổn thương cảm xúc của người Trung Hoa), và ông phát hiện chỉ trong năm 2011, có 17000 lần. Nước thứ hai bị tổn thương là Nhật với tần số 178 lần. Mĩ đứng hàng thứ 3 với 5 lần bị xúc phạm. Vợ chồng Brad Pitt và Angelina Jolie, làm tổn thương đến người Tàu ở vài thời điểm khác nhau: Pitt đóng trong phim về Tây Tạng, còn Jolie thì vô tình nói rằng đạo diễn Ang Lee là người TC (nhưng trong thực tế ông là người Đài Loan).

Ngược lại, TC từng dùng loại ngôn ngữ khắc nghiệt cho hàng loạt quốc gia, kể cả Việt Nam, và chẳng có nước nào than phiền là bị “tổn thương”.

Tháng 12 năm ngoái, Bộ trưởng Ngoại giao TC là Vương Nghị (Wang Yi) thốt ra những lời phê phán một cách nặng nề Bộ trưởng Ngoại giao Úc Julie Bishop trong một buổi gặp mặt trên truyền hình ở TC. Một quan chức ngoại giao kì cựu của Úc mô tả phát biểu của họ Vương như là một bài diễn văn láo xược nhất mà ông thấy trong sự nghiệp 30 năm làm nhà ngoại giao.
Tháng 7/2011, các quan chức Phi Luật Tân quyết định tẩy chay một quan chức ngoại giao TC vì thái độ vô lễ của ông này. Trong một bản ghi nhớ của Bộ Ngoại giao Phi Luật Tân, có đoạn viết rằng hành xử của viên quan chức ngoại giao TC cho thấy ông không đủ tư cách của một nhà ngoại giao.

Trong hồi kí mới đây của bà Hillary Clinton, có một chi tiết được tiết lộ liên quan đến cách hành xử của Dương Khiết Trì, lúc đó là Bộ trưởng Ngoại giao TC. Năm 2010 Hội nghị vùng ASEAN được tổ chức ở Hà Nội, các bộ trưởng ngoại giao ASEAN phàn nàn rằng sự hung hãn của TC làm cho cho các nước ASEAN quan ngại đến an ninh ở Biển Đông. Dương Khiết Trì đánh mất sự bình tĩnh và độc thoại suốt 30 phút mà chẳng ai hiểu ông ấy nói gì. Có lúc Dương tuyên bố rằng “Trung Cộng là một nước lớn, và các nước khác là tiểu quốc, và đó là một sự thật” – một sự thật chẳng dính dáng gì đến điểm đang thảo luận.

Loại hành vi khiếm nhã như thế càng ngày càng phổ biến ở giới quan chức TC, nhất là trong các diễn đàn chính trị và ngoại giao quốc tế. Đầu tháng qua, trong Đối thoại Shangri-La ở Singapore, thế giới chứng kiến những phát biểu cộc cằn và thô lỗ của một ông tướng TC trong bài “phản hồi” bình luận của Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel và Thủ tướng Nhật Shinto Abe.

Hagel liệt kê một danh sách các va chạm nghiêm trọng trên Biển Đông, và cảnh báo TC rằng những hành động đó đi ngược lại việc duy trì ổn định ở Biển Đông. Thủ tướng Abe nói về sự hung hăn của TC ở Biển Đông và Biển Hoa Nam, và thúc giục các nước nên tôn trọng luật quốc tế. Trong bài trả lời, Trung tướng Vương Quán Trung (Wang Guanzhong), Phó Tham mưu trưởng quân đội TC, cho rằng những phát biểu của Hagel và Abe là không tưởng tượng nỗi. Rõ ràng là ông tướng này không cảm thấy thoải mái với sự thật.

Thật ra, loại ngôn ngữ xấc xược này không hề mới trong nền ngoại giao Trung Hoa trước đây và Trung Cộng sau này. Những tài liệu tìm thấy từ thế kỉ 15 cho thấy các hoàng đế Trung Hoa thường hay dùng loại ngôn ngữ xấc láo như thế như là một phương tiện để đe doạ các nước láng giềng, những nước mà họ xem là “man di”. Văn phong của họ thường ngắn, đi thẳng vào vấn đề, và ngôn từ thì hoàn toàn bất tôn kính.

Một trong những cụm từ các hoàng đế Trung Hoa hay sử dụng là “Trung Hoa là một nước lớn”, một cấu trúc ngôn ngữ vẫn còn sống sót cho đến ngày hôm nay. Ngôn ngữ và văn hoá mang tính di truyền. Do đó, có lẽ không nên ngạc nhiên khi thấy câu “Trung Cộng là một nước lớn” thốt ra từ cửa miệng của các quan chức Trung Cộng như Dương Khiết Trì trong các diễn đàn quốc tế.

Trong một thế giới lí tưởng, ai cũng kì vọng rằng các nhà ngoại giao dùng những câu chữ lịch sự và tôn kính, thay vì những câu nói trịch thượng. Tuy nhiên, lí tưởng đó có vẻ là một xa xỉ đối với nhiều quan chức Trung Cộng. Trong thời gian gần đây, giới báo chí quốc tế đã chú ý đến thái độ và hành vi thiếu văn minh của giới du khách Trung Cộng ở nước ngoài. Thái Lan đã quá ngao ngán với du khách Trung Cộng. Những hành vi của du khách TC làm cho hình ảnh của đất nước họ xấu đi. Tương tự, những câu chữ thô lỗ và cộc cằn – bất kể nó xuất phát từ tình huống nào – thốt ra từ cửa miệng của các quan chức Trung Cộng trong các diễn đàn quốc tế chỉ có thể gây tác hại đến uy tín của Trung Cộng và sẽ chẳng thuyết phục được ai.


Ngôn ngữ của Tàu: xưa và nay

Ngẫm nghĩ lại việc báo chí của Tàu cộng gọi Việt Nam là một “đứa con trai hoang đàng” kể cũng thú vị nhưng không ngạc nhiên. Thú vị là vì lần đầu tôi nghe họ dùng kiểu ví von này, mà hình như trước đây họ chưa bao giờ đề cập. Không ngạc nhiên là vì (a) các quan chức Tàu cộng vốn đã quen với thói xấc láo và vô giáo dục, và (b) thái độ nhũn nhặn của phía VN. Tôi nghĩ chính vì thái độ của VN mà Tàu lấn lướt tới và khinh thường VN.


Ngẫm nghĩ lại việc báo chí của Tàu cộng gọi Việt Nam là một “đứa con trai hoang đàng” (0) kể cũng thú vị nhưng không ngạc nhiên. Thú vị là vì lần đầu tôi nghe họ dùng kiểu ví von này, mà hình như trước đây họ chưa bao giờ đề cập. Không ngạc nhiên là vì (a) các quan chức Tàu cộng vốn đã quen với thói xấc láo và vô giáo dục, và (b) thái độ nhũn nhặn của phía VN. Tôi nghĩ chính vì thái độ của VN mà Tàu lấn lướt tới và khinh thường VN. 

Có nhiều bằng chứng cho thấy các quan chức của Tàu cộng quen thói xấc xược với cộng đồng quốc tế. Chúng ta còn nhớ khoảng 3 năm trước đây (2011), các quan chức ngoại giao Phi Luật Tân phải thông báo cho Tàu cộng biết rằng họ cấm cửa một quan chức ngoại giao cao cấp của Tàu tên là Li Yongsheng vì người này quá thô lỗ (1). Thô lỗ đến nỗi người có học bình thường không chịu được và phải cấm cửa như cấm cửa loại thú hoang dơ bẩn.

Nhưng Tàu cộng không chỉ thô lỗ với các nước láng giềng Á châu, mà còn tỏ ra xấc láo với các nước phương Tây như Mĩ, Anh và Úc. Đối với Mĩ, các nhà ngoại giao Mĩ xem các quan chức ngoại giao Tàu cộng như những người lớn chưa trưởng thành nên họ chẳng thèm chấp. Ai lại đi chấp nhất với con nít? Mới đầu năm nay (2/2014), Bộ trưởng ngoại giao Úc là bà Julie Bishop có chuyến viếng thăm chính thức Tàu, và trong một buổi truyền hình trực tiếp, Bộ trưởng Ngoại giao Tàu cộng là Wang Yi tỏ ra rất cay cú với bà Bishop (2). Một quan chức ngoại giao Úc mô tả lời phát biểu của Wang Yi là thô lỗ nhất mà ông ghi nhận trong sự nghiệp 30 năm làm nhà ngoại giao của ông.

Thật ra, Tàu đã quen thói vô lễ từ lâu chứ không phải mới đây. Đọc tài liệu “Minh thực lục” do tác giả Hồ Bạch Thảo có công sưu tập và chú giải (3) chúng ta thấy vua chúa Tàu đã từng dùng những ngôn ngữ xấc xược từ thế kỉ 15. Ví dụ như trong một “chiếu chỉ” viết cho nước Trảo Oa (Java), Minh Thái Tông (tức Thành Tổ) viết:

Ngươi vốn ở biển nam, làm tròn chức cống, Sứ giả qua lại biết lấy lễ đáp lại, Trẫm riêng khen điều đó. Mới đây bọn ngươi cùng Đông Vương gây việc binh đao ; khiến 170 người của Thiên triều sai đến đều chết, tội lỗi rành rành. Vả lại ngươi và Đông Vương đều được triều đình phong tước, nhưng vì sự tham giận, tự tiện tiêu diệt chiếm nước của Đông Vương, trái đạo trời nghịch mệnh, còn tội nào lớn hơn vậy ! Sắp đem quân đi thảo phạt, thì ngươi sai Á Liệt Gia Ân đến kinh khuyết chịu tội. Trẫm nghĩ ngươi biết hối hận, nên dừng binh không tiến ; nhưng nghĩ đến 170 người chết một cách oan uổng, thì làm sao bỏ qua được ! Bởi vậy ngươi phải nộp 6 vạn lạng vàng bồi thường tính mệnh người chết để chuộc tội, mới bảo hộ được đất đai và nhân dân của ngươi. Nếu không tuân thì không thể tránh được mang quân đi hỏi tội; hãy xem sự việc tại An Nam để làm tấm gương soi ! 

Còn với Chiêm Thành:

“Thiên tử cho rằng vừa bình định xong, dân mới được yên nghiệp, không nỡ mang quân đi đánh nước man di xa xôi. Chỉ sai sứ sang dụ Chiêm Ba Đích Lại rằng nước ngươi từ lâu bị An Nam độc hại, mấy lần xin phát binh tiễu trừ, Trẫm đã mệnh đem quân bình định, chia nước này thành quận huyện. Ngươi Lại, đáng cảm tạ ân đức, yên phận để giữ đất phong, nếu ăn ở hai lòng trái đạo trời, không chăm sóc kẻ dưới, không chịu trả lại đất An Nam, thì hãy trông bánh xe đổ trước mắt, xem đó để làm răn !”

Đúng là loại ngôn ngữ của bề trên, xấc xược và thô lỗ.

Nhưng đó là thời xưa, thời mà ánh sáng văn minh và bình đẳng chưa soi sáng đến Tàu, thời mà Tàu nghĩ rằng ngoài họ ra chẳng còn ai.  Thời đó, các hoàng đế Tàu xem tất cả các nước khác là chư hầu và dân nước khác là thần dân của họ. Mà, thực ra, “các nước khác” ở đây cũng chỉ nằm trong cái radar ngắn của Tàu mà thôi, chứ chắc gì họ biết Âu châu hay Mĩ châu. Do đó, chúng ta có thể “thông cảm” cho sự ngu muội của các hoàng đế Tàu thời đó. Nhưng thời nay, Tàu đã văn minh hơn, đã nhìn thấy thế giới nhiều hơn, và với và xa lộ thông tin internet mà các quan chức của họ vẫn còn quen thói xấc xược thì quả là khó thông cảm. Rất có thể các quan chức Tàu cộng có gien bị đột biến nên mới thể hiện qua thói ăn nói vô phép và xấc láo như thế.

Nhưng trong số các nước mà Tàu cộng xấc xược, không có nước nào bị nặng nề như Việt Nam.  Họ dám xem VN như là đứa con trai hoang đàng thì đủ biết mức độ xấc xược của họ đã đạt đỉnh. Trong thế giới văn minh, không có một nước nào dám xem nước khác là đứa con; chẳng những đứa con, mà còn đứa con hoang đàng. Vừa xem thường, vừa mắng mỏ. Điều đắng lòng là cái nước bị mắng mỏ đó không có một lời đáp trả!

Thời xưa, các vua chúa của VN dù lệ thuộc Tàu nhưng không phải hạ mình và nhẫn nhục như hiện nay. Chẳng hạn như trong thời chống Minh, Nguyễn Trãi đã chửi thẳng vào viên tướng Tàu có tên là Phương Chính như sau (4): “Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính : Kể đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của. Nay bọn mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương, việc ấy trời đất không dung, người mà đều giận, cho nên liền năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua. Thế mà không biết trước tự cải quá, lại còn bới bẩn cho thêm thối, hối sao cho kịp được ! Huống chi bây giờ nước mùa xuân mới sinh, lam chướng bốc độc, thế không thể chịu lâu được. Nay mày chỉ nắm đại binh mà nấn ná không tiến, khiến quân lính nhiễm lam chướng dịch lệ mà chết, đó là tội ai ? Binh pháp có nói : “ Kẻ nhân giả lấy yếu chế mạnh, kẻ nghĩa giả lấy ít địch nhiều ”. Nay mày muốn đánh, thì nên tiến quân giao chiến, để quyết sống mái, đừng làm khổ cho quân sĩ hai nước làm gì.”

Ôi, chúng ta thật sự cần một Nguyễn Trãi hiện nay.
----
(4) Quân Trung Từ Mệnh Tập, Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1976 (Theo bản trích trên mạng). Trích lại từ bài viết của tác giả Hồ Bạch Thảo http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/van-tu-ngoai-giao

Phản bác luận điểm của Tàu cộng như thế nào?

Đọc bài gọi là “phản biện” của ông Trần Công Trực (1) tôi thấy có phần hời hợt và thiếu tính thuyết phục. Những điểm trình bày trong bài viết có lẽ chỉ nói cho “phe ta” đọc cho vui mắt thôi, và tạo ấn tượng học thuật qua danh xưng. Nhưng đứng trên phương diện học thuật thì bài phản biện này chưa đạt chuẩn để lên võ đài tranh luận với các học giả Tàu. Đây chính là vấn đề của VN: chỉ thích nói cho nhau nghe, mà không phản bác đối phương một cách trực tiếp. Hệ quả là chính ta ru ngủ ta (hay có người nói là “tự sướng”).


Sự hời hợt được phản ảnh qua phần phản bác thông tin trong sách giáo khoa lớp 9. Chẳng hạn như câu “Các tài liệu khác như Sách giáo khoa địa lý lớp 9, Tập bản đồ thế giới…thực chất đây là những tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu, học tập…”.  (Ôi! Sao tôi ghét cái dấu ba chấm này quá [2]). Tôi sợ giải thích này không thuyết phục. Ở một nước mà thông tin bị kiểm soát nghiêm ngặt và tất cả tin tức đều qua kiểm duyệt của bộ máy đảng và Nhà nước thì lí lẽ gọi là “tham khảo” không có giá trị pháp lí không thuyết phục được ai. Nên nhớ rằng tài liệu tham khảo là một chứng từ, và theo tôi thấy, chứng từ vẫn có giá trị nào đó ở pháp đình. Vấn đề là giá trị của nó cao thấp cỡ nào. Bọn Tàu cộng đọc xong câu này chắc chúng sẽ cười, vì chúng thầm nghĩ “chiêu này chúng tao dạy cho tụi bây mà”.
Vậy chúng ta phản bác luận điệu sách giáo khoa này như thế nào? Tôi nghĩ đến những cách thức và luận điểm sau đây:

Thứ nhất là tính phi khoa học. Tài liệu tham khảo có thể dùng để biện minh cho một phát biểu hay quan điểm. Việc Tàu cộng dùng “tài liệu tham khảo” (dùng chữ của ông TCTrực) là hợp lí. Nhưng cách sử dụng đó cũng không hợp lí và phi khoa học, bởi vì trong học thuật, có tài liệu tham khảo yểm trợ cho một quan điểm, nhưng cũng có tài liệu tham khảo khác không yểm trợ quan điểm đó. Tại sao họ không trích dẫn sách giáo khoa địa lí ở miền Nam? Tương tự, nếu khách quan thì Tàu cộng phải trình bày tài liệu khác cho thấy hai quần đảo đó không thuộc về họ (nhưng điều này thì chúng ta không thể kì vọng họ). Vì không kì vọng vào tính khoa học của Tàu cộng, nên phía VN phải trình bày tài liệu tham khảo khác đáng tin cậy hơn và khách quan hơn để phản bác quan điểm của họ.

Thứ hai là phản bác về độ tin cậy và chính xác của thông tin. Tôi nghĩ không nên dựa vào lí giải rằng vì là “tham khảo” nên không có giá trị pháp lí, mà phải biện luận cái nguồn gốc của thông tin đó. Nói cách khác, phải tìm cho rõ thông tin trong sách giáo khoa lớp 9 (nói rằng Tây Sa và Nam Sa là của Tàu cộng) xuất phát từ đâu. Sau đó sẽ thẩm định độ tin cậy và tính chính xác của thông tin đó. Tôi chủ quan nghĩ rằng thông tin đó đến từ Tàu cộng (hoặc do chúng áp đặt, hoặc phía VN dịch sách của Tàu cộng), và nếu điều đó đúng thì thông tin chẳng có ý nghĩa gì trong tài liệu của họ.

Thứ ba là thông tin trong sách giáo khoa không phải là bất biến. Trong nhiều lĩnh vực, kể cả địa lí và sử, biên giới và chủ quyền có thể thay đổi theo thời gian. Sự thay đổi có thể là do tranh chấp, chiến tranh, hay do kiến thức mới. Do đó, sách giáo khoa địa lí của Bắc VN đã in từ hơn 40 năm trước, và trong thời gian đó đã có nhiều thay đổi. Lấy thông tin của hơn 4 thập kỉ trước để biện minh cho tranh chấp hiện nay là có phần không hợp lí. Không ai dựa vào thông tin sử của 400 năm trước để đòi Los Angeles trả về cho Mexico, hay trả Sài Gòn cho Vương quốc Khmer!  Vả lại, VN bây giờ là thống nhất, còn cuốn sách giáo khoa đó chỉ được dùng giảng dạy cho một phần VN, và cũng chỉ trong một thời gian ngắn, không thể xem là một tài liệu tham khảo có giá trị bất biến. 

Thứ tư là dùng đến phân tích thống kê. Tàu cộng dùng thông tin trong sách giáo khoa của VN và cái thư (hay công hàm?) của Phạm Văn Đồng, và có thể vài nguồn khác để biện minh về chủ quyền. Nhưng lượng tài liệu của họ không nhiều, và chất cũng kém. Do đó, ở đây, chúng ta phải đấu về lượng và chất. Không cần nói ra, chúng ta đều biết VN đang lưu giữ một lượng thông tin khổng lồ về chủ quyền hai quẩn đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chắc chắn là nhiều hơn lượng thông tin của Tàu. Vậy thì phía VN còn chần chừ gì mà không làm một thống kê có bao nhiêu tài liệu “for” và “against” (phải có cả hai) để làm một chứng minh mang tính định lượng về chủ quyền. Để thuyết phục về chất, cần phân loại thông tin (lịch sử, khoa học, văn học, báo chí) và sắp xếp theo thời gian.  Các nhà báo VN hết năm này sang tháng nọ cứ viết bài “có thêm bằng chứng” [chủ quyền] mà không có ai đứng ra hệ thống hoá thông tin cả. Đã đến lúc một nhóm nhà bào hay nhà khoa học xã hội đứng ra thu thập dữ liệu và biến chúng thành thông tin và tri thức. Nếu cần kĩ năng phân tích thống kê, sẽ có người ở VN hoặc nước ngoài hỗ trợ. Tôi nghĩ đó là một cách thức thực tế để tạo thêm chứng từ trong cuộc đấu tranh với Tàu cộng. 

Phải nói là Tàu cộng rất hèn và thấp khi sử dụng đến cái công hàm của Phạm Văn Đồng và sách giáo khoa trong tài liệu họ nộp cho Liên Hiệp Quốc để “chứng minh” rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Tàu. Đây là những tài liệu được soạn ra trong lúc hai bên (Bắc VN và Tàu cộng) còn thân thiết với nhau như anh với em (“môi hở răng lạnh”), vậy mà bây giờ họ dùng đó để ra đòn “hạ thủ”. Việc sử dụng các tài liệu này chẳng khác gì cặp tình nhân lúc còn mặn nồng thì vui vẻ chụp hình bên nhau, đến một ngày nào đó “canh không ngọt” thì một bên công bố những tấm hình tế nhị cho cả thế giới biết. Đó là một trò hèn hạ và bỉ ổi, nhưng nó có tác dụng và gây ảnh hưởng với những ai không chịu khó suy nghĩ.

Nhưng VN không nên hạ mình thấp và hèn như Tàu cộng. Trong tranh luận với Tàu, chúng ta cần phải tận dụng tất cả thông tin và vận dụng tất cả phương tiện Tôi nghĩ nếu VN phản bác (và nên phản bác) luận điểm của Tàu cộng, thì những tận dụng thông tin và vận dụng thống kê có thể giúp một phần. Dĩ nhiên, tận dụng và vận dụng nhưng phải tỏ ra khách quan (ví dụ như nhìn vấn đề 2 chiều) chứ không hèn và tự hạ thấp như Tàu.

-----
[2] Tôi phải mở ngoặc đế nói về cách viết. Hình như nhiều người Việt có “truyền thống” viết văn với ba dấu chấm, nên nó rất rất phổ biến. Tôi rất ghét ai viết như thế, vì tôi nghĩ nó phản ảnh sự lười biếng suy nghĩ của tác giả. Ba dấu chấm (…) có thể hiểu nhiều cách: có thể là một sự ngập ngừng, có thể là chẳng còn ý nào khác, hoặc có thể là người viết nghĩ chưa đến nơi đến chốn. Hiểu thế nào thì vẫn là một sự lười biếng suy nghĩ. Kiểu viết đó rất phản cảm và đại kị trong khoa học.
[3] Đây là một phần tài liệu (phụ lục) mà Tàu nộp lên Liên Hiệp Quốc vào hôm thứ Hai 9/6/2014, trong đó họ trích dẫn sách giáo khoa địa lí lớp 9 ở miền Bắc Việt Nam.


annex5-5-2.jpg

annex5-5-3.jpg

annex5-5-4.jpg
[4] Trích từ BVNXung quanh việc tranh chấp chủ quyền của Quần đảo Hoàng Sa giữa Việt Nam và China mà hai bên đã lên án, phản bác lẫn nhau trên các phương tiện truyền thông vừa rồi; dù muốn hay không nghĩ đến, nhưng người Việt hôm nay, phần nào phải công nhận rằng: Chính nghĩa đang dần thuộc về VNCH. Nếu như cho rằng, với mọi người trên Đất Nước Việt Nam thì “Chủ quyền lãnh thổ là thiêng liêng, tối thượng”, thì chính nghĩa lại đang thuộc về VNCH.

clip_image002

Sắc lệnh (năm 1961 – sau 3 năm so với “công thư Phạm Văn Đồng”) của Tổng thống VNCH, đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập xã Định Hải gồm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trực thuộc quận Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: facebook.com