Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

Đào tạo tiến sĩ: không chỉ là luận án


Những ai đã từng hướng dẫn nghiên cứu sinh ở các trường đại học phương Tây nếu đọc qua qui trình bảo vệ luận án tiến sĩ ở VN chắc phải kinh ngạc (1). Kinh ngạc vì thủ tục hành chính quá ư phức tạp, chứ không phải vì nội dung khoa học. Nhĩn kĩ những thủ tục hành chính được đặt ra hình như không phải để nâng cao chất lượng nghiên cứu, mà là xuất phát từ sự thiếu tin tưởng vào nghiên cứu sinh và người hướng dẫn.  Mất hay thiếu niềm tin tưởng trong học thuật và khoa học là một thảm hoạ.



Vì thủ tục hành chính rườm rà nên khi kiểm tra thì vẫn phát hiện “vi phạm” hành chính.  Theo một thống kê do Bộ GDĐT công bố, có đến phân nửa những trường hợp được kiểm tra làm không đúng qui trình (2). Nhưng điều đáng nói là 3% trong số luận án thẩm định không đạt yêu cầu, nên phải thành lập hội đồng thẩm định lại. Như vậy, phải nói rằng qui trình đặt ra là có vấn đề, vì nếu qui trình đơn giản và dễ hiểu thì tại sao có đến phân nửa vi phạm. Cho dù con số 3% là chưa cao về mặt lượng,  nhưng về mặt phẩm chất thì chỉ vài luận án không đạt tiêu chuẩn cũng đủ để gióng tiếng chuông báo động.

Học tiến sĩ không chỉ là luận án

Ở VN, rất nhiều người hướng dẫn và cả nghiên cứu sinh rất quan tâm đến luận án, và tôi nghĩ mối quan tâm đó không hợp lí. Nhiều người hướng dẫn và nghiên cứu sinh có quan điểm cho rằng luận án là một cứu cánh của việc học, đồng thời cũng là phương tiện để có văn bằng tiến sĩ. Ngày xưa khi mới vào học chương trình tiến sĩ, vì chịu ảnh hưởng “quan điểm Việt Nam” nên tôi cũng rất quan tâm đến luận án. Đến khi một buổi, giáo sư hướng dẫn kêu tôi lên văn phòng và nói thẳng: “Tôi thấy anh quá lo cái luận án mà không lo đến việc công bố bài báo khoa học; tôi phải nói thẳng rằng anh rất sai lầm về lựa chọn đó; luận án của anh rồi cũng chỉ tồn tại trên cái giá sách kia [ông đưa tay chỉ về giá sách với hàng chục luận án từ thập niên 1970s] chứ có ai đọc đâu, chính anh cũng không đọc nữa; bài báo khoa học mới có giá trị lâu dài; luận án chỉ là tập hợp những bài báo khoa học.” Sau này, tôi mới thấm thía lời nói đó của vị thầy hướng dẫn.

Bài báo khoa học là một đóng góp quan trọng của nghiên cứu sinh khi học tiến sĩ. Bài báo là một đúc kết những phương pháp và kết quả nghiên cứu về một chủ đề nào đó, và phải trải qua một qui trình bình duyệt của các chuyên gia trong cùng ngành và có chuyên môn về chủ đề nghiên cứu. Khi công bố bài báo khoa học, nghiên cứu sinh có cơ hội hệ thống hoá kiến thức, trao dồi kĩ năng viết báo khoa học, và kinh nghiệm đối phó với các chuyên gia bình duyệt (mà cũng là đồng nghiệp của mình trong tương lai). Nếu bài báo được công bố trên các tập san có chỉ số ảnh hưởng cao, nghiên cứu sinh có cơ hội “thành danh” sớm hơn các nghiên cứu sinh khác. 

Bài báo khoa học còn là một cái “acid test” cho nghiên cứu sinh. Khi bài báo đã qua bình duyệt và được công bố, nó được tất cả các đồng nghiệp trong ngành đọc và săm soi. Nếu bài báo có vấn đề thì sẽ có đồng nghiệp lên tiếng phê bình.  Phần lớn nghiên cứu sinh đều vui mừng khi biết bài báo được tập san chấp nhận cho công bố, nhưng sau đó thì hồi hộp sau khi bài báo được công bố vì e rằng có gì chưa ổn và bị người khác phát hiện. Do đó, có thể nói rằng công bố những gì nghiên cứu đã nghiên cứu qua bài báo khoa học là một hình thức “thử lửa” tốt nhất cho nghiên cứu sinh.

Ở các đại học Úc và Anh, luận án tiến sĩ thực chất là tập hợp những bài báo đã công bố nhưng phải viết lại chi tiết hơn để thành một monograph. Ở các đại học Bắc Âu, các nghiên cứu sinh gộp những bài báo đã công bố kèm theo chương dẫn nhập và kết luận thành một luận án. Nói chung, hai “mô hình luận án” ở Úc và Bắc Âu rất giống nhau. Dĩ nhiên, luận án cũng có thể bao gồm những bài báo chưa công bố kịp.  Thông thường, một nghiên cứu sinh công bố 2-3 bài báo trước khi soạn thảo thành một luận án. Với mô hình này, luận án xem như đã được cộng đồng khoa học trong chuyên ngành trên thế giới thông qua, chứ không phải chỉ vài người xét duyệt.

Qui trình bảo vệ luận án

Như đề cập trên, qui trình bảo vệ luận án ở VN quá phức tạp và nhiêu khê. Hiếm có nơi nào trên thế giới mà nghiên cứu sinh phải bỏ tiền túi ra làm nghiên cứu mà còn phải đứng ra tổ chức buổi lễ bảo vệ luận án, với đầy đủ “thủ tục” bao thư cho người phản biện!

Tôi cho rằng qui trình bảo vệ luận án tiến sĩ ở VN có thể đơn giản hoá cho gọn nhẹ hơn.  Một trong những qui trình mà VN có thể tham khảo là cách làm của các đại học Úc. Tôi thấy các đại học ở Bắc Âu và Bắc Mĩ cũng có mô hình duyệt luận án giống như Úc. Ở Úc, qui trình thẩm định luận án theo mô hình bình duyệt kín, giống như qui trình bình duyệt một bài báo khoa học. Qui trình này có thể mô tả như sau:

Bước 1, chuẩn bị danh sách người bình duyệt. Trước khi nghiên cứu sinh nộp luận án, nhà trường yêu cầu người hướng dẫn cùng nghiên cứu sinh bàn bạc để đề cử 3 người có thể bình duyệt luận án. Trường cũng có một danh sách các chuyên gia khác bình duyệt.

Bước 2, bình duyệt. Sau khi luận án được nộp, trường sẽ gửi cho 2-3 chuyên gia bình duyệt, nhưng cả người hướng dẫn và nghiên cứu sinh không biết trường đại học chọn ai làm người bình duyệt. Chỉ biết rằng trong số các chuyên gia được chọn, phải có ít nhất một người nước ngoài. Sau 3 tháng bình duyệt, các chuyên gia sẽ gửi một bản thẩm định về ý tưởng, phương pháp, kết quả, hình thức trình bày của luận. Kèm theo bản thẩm định là đề nghị chấp nhận luận án, cần chỉnh sửa, và bác bỏ luận án.

Bước 3, chỉnh sửa. Phần lớn luận án sau khi qua bình duyệt đều phải chỉnh sửa vài chi tiết nhỏ. Tôi có một nghiên cứu sinh dù đã công bố 5 bài báo khoa học trên các tập san IF cao, thế mà sau khi qua bình duyệt, nghiên cứu sinh vẫn phải trả lời gần 60 câu hỏi và phê bình. Nghiên cứu sinh sau khi nhận được bản thẩm định sẽ trả lời từng câu hỏi, nhận xét của chuyên gia, và đồng thời chỉnh sửa luận án theo yêu cầu.

Bước 4, hội đồng học thuật ra quyết định. Sau chỉnh sửa luận án, nghiên cứu sinh nộp luận án cho trường. Theo định kì 4 lần mỗi năm, Hội đồng học thuật của trường sẽ họp và xem xét báo cáo thẩm định của các chuyên gia, đối chiếu với phản biện của nghiên cứu sinh, và sẽ ra quyết định sau cùng. Thông thường, hiện nay, thời gian từ lúc nộp luận án đến khi có quyết định sau cùng là khoảng 6 tháng, nhưng cũng có trường hợp kéo dài đến 9 tháng vì có khi các chuyên gia yêu cầu làm thêm thí nghiệm (hiếm xảy ra).

Ở Úc không có buổi lễ bảo vệ luận án như cách làm khá màu mè ở VN. Ở Viện tôi, trong suốt thời gian theo học, mỗi năm nghiên cứu sinh phải trình bày tiến độ và kết quả nghiên cứu trước toàn viện (khoảng 500 nhà khoa học). Ngoài ra, mỗi tuần nghiên cứu sinh phải dự họp lab, và mỗi 2 tháng phải báo cáo kết quả nghiên cứu trước lab. Trước khi trình luận án, nghiên cứu sinh còn có một buổi báo cáo sau cùng trước toàn Viện, và sau đó là một buổi tiệc nhỏ để … mừng nghiên cứu sinh (dù luận án mới được nộp). Nghiên cứu sinh không tốn một đồng nào cho qui trình trên.

Tôi nghĩ rằng một qui trình như thế cũng có thể áp dụng ở VN, với điều kiện nghiên cứu sinh VN phải có công bố quốc tế. Nếu nghiên cứu sinh không có công bố quốc tế, việc thẩm định luận án rất khó khăn, vì có những vấn đề trong luận án mà một chuyên gia có khi không phát hiện. Khi công bố thì luận án được trình bày trước cộng đồng khoa học quốc tế nên khi có vấn đề thì dễ bị phát hiện hơn.

Theo qui định mới của Bộ GDĐT về đào tạo tiến sĩ, nghiên cứu tiến sĩ phải có một bài báo khoa học đăng trên một tập san quốc tế hay kỉ yếu hội nghị. Nhưng tôi nghĩ qui định này chưa đạt. Bàiđăng trên kỉ yếu hội nghị khó có thể xem là bài báo khoa học, vì rất nhiều hội nghị khoa học không có bình duyệt nghiêm chỉnh. Trong ngành y, các bài trong kỉ yếu hội nghị không được tính trong bảo vệ luận án. Còn nói “tập san quốc tế” cũng chưa đủ, phải nói là tập san có bình duyệt (peer review) có impact factor.

Một cách lí tưởng, học vị tiến sĩ là một loại “hộ chiếu quốc tế” để tham gia nghiên cứu khoa học. Trong một vài phát biểu trước, tôi có đề nghị rằng, để đảm bảo tính quốc tế của học vị tiến sĩ ở trong nước, mỗi đề án nghiên cứu cấp tiến sĩ ở vài ngành khoa học, nên mời ít nhất là một giáo sư uy tín ở nước ngoài tham gia hướng dẫn nghiên cứu và luận án.  Sự có mặt của các giáo sư quốc tế như thế sẽ giúp cho nghiên cứu sinh có thêm thông tin, học thêm về phương pháp khoa học, và nhất là thiết lập mối bang giao khoa học sau khi tốt nghiệp rất cần thiết cho giai đoạn nghiên cứu hậu tiến sĩ như tôi nói ở phần trên.

Nhưng trong thực tế, luận án chỉ là một phần trong chương trình đào tạo tiến sĩ, những phần khác còn quan trọng hơn là những kiến thức chuyên ngành và kĩ năng khoa học mà nghiên cứu sinh tiếp thu trước khi trở thành một nhà khoa học chuyên nghiệp và độc lập (3). Do đó, học tiến sĩ không chỉ là làm đẹp luận án. 

Chú thích:

Bài đã đăng trên Tuần Việt Nam dưới tựa đề "Tiến sĩ Việt bao giờ thành hộ chiếu quốc tế".  

(1) Thư của GS Pierre Darriulat gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam

(2) Xem bài “Nhộn nhạo như đào tào tiến sĩ” (Tuổi trẻ), http://tuoitre.vn/Giao-duc/623929/%E2%80%8Bnhon-nhao-nhu-dao-tao-tien-si.html

(3) Trong ngành y sinh học, tổ chức IUBMB đã đề ra 7 tiêu chuẩn cho một học vị tiến sĩ như sau (xem Vella F.  Standards for the Ph.D. degree in the molecular biosciences.  IUBMB Life 1999; 48:567-576)

Bảy tiêu chuẩn chung cho một học vị tiến sĩ về y sinh học

1.    Nắm vững các kiến thức cơ bản về sinh lí y học, di truyền học, vật lí, hóa học, sinh hóa học, và toán học.
2.    Am hiểu y văn về lĩnh vực chuyên môn và cập nhật hóa kiến thức liên quan đến lĩnh vực chuyêm môn.
3.    Kĩ năng phát hiện vấn đề hay nêu câu hỏi có ý nghĩa cho nghiên cứu.
4.    Làm chủ được kĩ thuật thử nghiệm lâm sàng hay thí nghiệm khoa học cơ bản.
5.    Kĩ năng truyền đạt thông tin bằng viết, nói, và thuyết phục.
6.    Nắm vững kĩ năng thiết kế và tiến hành một công trình nghiên cứu.  
7.    Thí sinh phải chứng tỏ mình am hiểu tiếng Anh, và có khả năng sử dụng hay ứng dụng công nghệ thông tin.





0 nhận xét:

Đăng nhận xét