Hiển thị các bài đăng có nhãn Đại học Tôn Đức Thắng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đại học Tôn Đức Thắng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2015

Khánh thành lab cơ xương

Hôm qua (28/6) là một ngày đặc biệt trong chuyến công tác lần này: ngày khánh thành Lab Nghiên Cứu Cơ Xương (gọi tắt là BMRg). Nhân dịp này, tôi được gặp lại một số bạn bè và đồng nghiệp, và cũng có vinh hạnh cho phát biểu vài ba câu về những gì chúng tôi đã (và đang) làm, cũng như viễn kiến trong tương lai. Nhân dịp này tôi có bày tỏ cám ơn đến PGS Phạm Nguyễn Vinh, PGS Phạm Ngọc Hoa, PGS Vũ Đình Hùng, BS Phan Thanh Hải, DS Nguyễn Thanh Tòng, các bạn trong khối kĩ nghệ như ông bạn tôi là Nicholas Nguyên, đại diện của Siemens, MSD, v.v. Một số bạn không đến được vì "dính" vài hội nghị khác trong ngày Chủ Nhật nhưng có gửi lời chúc mừng. Xin cám ơn tất cả các bạn đã hỗ trợ chúng tôi trong thời gian qua, và hi vọng các bạn sẽ tiếp tục giúp đỡ chúng tôi trong tương lai.


BMRg là một trong những lab mới được thành lập dưới sự tài trợ của Trường ĐH Tôn Đức Thắng (TDTU). Đây cũng là Lab nghiên cứu cơ xương đầu tiên ở Việt Nam. Hiện nay, Lab đã được trang bị những thiết bị hiện đại nhất (gọi là state-of-the-art) trong ngành cơ xương, trong đó có hệ thống DXA. Lớp mới của DXA là Horizon, hiện nay chỉ có 5 máy trên thế giới, có thể giúp đánh giá gãy xương cột sống từng đốt sống (thay vì làm thủ công trước đây). Dĩ nhiên, máy cũng đo được tỉ trọng mỡ và cơ, rất quan trọng trong việc chẩn đoán béo phì. Vài tháng tới, Lab sẽ có thêm máy pQCT để đo cấu trúc 3 chiều của xương, gíup cho việc đánh giá sức khoẻ của xương chính xác hơn. Trong tương lai, khi tình hình nhân sự cho phép và ổn định, chúng tôi hi vọng sẽ có Lab nghiên cứu về di truyền. Như vậy là sẽ có trọn một hệ thống tương đối hoàn chỉnh cho việc nghiên cứu xương khớp.


BMRg thật ra chỉ là một trong 20 lab nghiên cứu của TDTU hiện nay. Trường đã có 19 lab khác, chuyên về tính toán, hoá học, kĩ thuật, v.v. Khá nhiều lab là do các chuyên gia nước ngoài, kể cả Việt kiều điều hành. Họ không cần về VN toàn thời gian, mà có thể làm từ xa với các đồng nghiệp trong nước. Hiện nay, TDTU còn quảng cáo tìm postdoc từ nước ngoài, với mức lương khá tốt so với các nước trong vùng như Thái Lan và Mã Lai. Các lab khác cũng đã hoạt động rầm rộ trong thời gian qua, nên BMRg cũng phải … chạy theo. Các lab nghiên cứu này đã giúp TDTU nâng cao "sản lượng" nghiên cứu khoa học lên một cách ngoạn mục.

Tháng vừa qua, chúng ta biết rằng TDTU là là một trong 15 viện/trường có nhiều công bố quốc tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu so sánh tỉ lệ tác giả chính là người Việt thì tôi nghĩ TDTU chắc chắn phải là top 5, vì các trường lớn khác có sản phẩm chủ yếu là qua hợp tác với nước ngoài và người nước ngoài là tác giả chính. Nhìn như thế để thấy rằng BMRg và các lab khác của TDTU có sứ mệnh nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và nâng cao tỉ trọng tác giả chính là người Việt cho Việt Nam.
Trong buổi khánh thành lab, tôi có nói rằng sứ mệnh của BMRg là nghiên cứu và khám phá các cơ chế tác động của môi trường và hệ gen đến loãng xương; chuyển giao tri thức, và triển khai công nghệ nhằm phục vụ cho việc điều trị và phòng chống loãng xương, thoái hoá khớp, và nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân loãng xương. Còn vision của BMRg là xây dựng một trung tâm nghiên cứu đẳng cấp quốc tế chuyên về nghiên cứu các bệnh lí xương. Nhóm nghiên cứu sẽ đóng góp tích cực vào việc nâng cao sự hiện diện của y học và khoa học Việt Nam trên trường quốc tế.

Tôi có nhấn mạnh rằng chúng tôi không nói suông hay "nổ", làm cho hội trường cười. (Tôi cũng muốn nói chuyện vui mà). Tôi nói rằng các bạn có thể nhìn qua thành tựu của chúng tôi trong thời gian qua về những công trình và tập san chúng tôi công bố thì biết rằng sứ mệnh và viễn kiến đó là khả thi. Chúng tôi đã công bố trên những tập san hàng đầu thế giới, mà ngay cả các lab ở Úc hay Mĩ chưa chắc làm được với ngân sách khiêm tốn như chúng tôi. Chúng tôi đã đưa tên tuổi Việt Nam trong thế giới loãng xương, và bằng chứng là các thành viên của nhóm được đồng nghiệp quốc tế mời giảng trong hội nghị, mời làm peer review, mời làm trong ban biên tập. Nói theo ngôn ngữ "giang hồ" khoa học là Lab đã được "recognized" (công nhận). Nhưng chúng tôi không bao giờ tự mãn, mà lúc nào cũng phải cảnh giác, nhìn quanh các nhóm trong vùng, và cố gắng nâng cao vị thế trong tương lai.

Tôi cũng thông báo đến các bạn trong buổi lễ khánh thành rằng chúng tôi đang triển khai giai đoạn đầu của một nghiên cứu lớn nhất ở VN. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ thu thập rất nhiều dữ liệu, từ xương, béo phì, tim mạch, tiểu đường, đến di truyền học. Chúng tôi sẽ dùng công nghệ NGS (next generation sequencing) để phân tích toàn bộ nhiễm sắc thể người Việt, và kiến tạo một ngân hàng dữ liệu di truyền cho người Việt để các đồng nghiệp khác tham khảo trong tương lai. Đây là công trình dài hơi, và chúng tôi dự định sẽ thực hiện trong 10 năm. Nhưng sau 2 năm thì chúng tôi sẽ có những dữ liệu "phenotype" đầu tiên, và có thể bắt đầu công bố dần dần. Tôi muốn dùng công trình này làm môi trường huấn luyện kĩ năng nghiên cứu cho các bác sĩ trẻ, những người sẽ thay thế chúng tôi trong tương lai (vì chúng tôi cũng sẽ từ giã cõi đời thôi). Kinh phí vẫn là một thách thức lớn, nhưng chúng tôi phải vái lạy mười phương tứ hướng để có tiền làm. Hi vọng rằng người ta thấy chúng tôi làm nghiêm chỉnh và làm có hiệu quả thì sẽ ủng hộ.



Tôi có nói ý nghĩa của việc ra đời của BMRg trong bối cảnh chung của Việt Nam. Như chúng ta biết, Nhà nước có vài chương trình thu hút giới khoa học Việt kiều ở nước ngoài về hợp tác hay làm việc ở VN. Ngoài một số trường hợp đã về VN làm việc, nói chung thì chương trình này chưa thành công. Tôi nghĩ cách thức mà giới khoa học nước ngoài cùng hợp tác với một viện/trường cụ thể để lập lab nghiên cứu là cách thức tốt nhất để thực hiện chương trình mà Nhà nước có ý định từ lâu. Nhưng vấn đề là hầu hết các trường đại học ở VN không muốn (hay không có tiền để) lập lab; họ thường trông chờ vào Nhà nước hay ai đó "làm từ thiện". Và, mong chờ thì vẫn là mong chờ một cách thụ động, nên những chương trình thu hút giới khoa học của Nhà nước vẫn chưa thực hiện được.

Vài người ở trong nước có một quan điểm rằng họ làm tất cả (kiểu như bày ra mâm cỗ) và mời gọi Việt kiều về làm. Tôi nghĩ đây là một quan điểm sai lầm, vì không có một người Việt kiều có lòng tự trọng nào lại đi làm như thế. Không có ai khệnh khạng đòi hỏi người khác bày mâm cỗ cho mình hưởng; họ muốn cùng làm việc với đồng nghiệp trong nước tạo ra môi trường nghiên cứu. Lại có quan điểm cho rằng không cần Việt kiều, vì người trong nước vẫn làm được nếu có đầu tư tốt. Nhưng tôi sợ rằng đây là một giả định, bởi vì trong quá khứ thì nó không xảy ra như vậy, do nhiều người quá tự tin. Mới làm postdoc, hay thậm chí chưa làm postdoc, mà đã nghĩ mình là "top of the world" thì tôi sợ là hơi quá tự tin, và tính quá tự tin này chỉ làm hại và giật lùi VN mà thôi. Những gì giới khoa học Việt kiều đem về VN không chỉ là kĩ năng và kinh nghiệm, mà còn là prestige và văn hoá khoa học -- cái mà VN rất thiếu. Nên học Thái Lan, ai họ cũng "chấp tay" mời gọi dù trong thực tế họ có khả năng làm được (và họ chỉ chấp tay để học thêm).

Hiện nay, có chương trình FIRST do Ngân hàng thế giới tài trợ, cũng với mục tiêu thu hút giới khoa học Việt kiều về nước hợp tác nghiên cứu. Nhưng tôi không dám tiên đoán khả năng thành công là bao nhiêu, vì chưa rõ cơ chế làm việc ra sao. Nói chuyện với các bạn trong Bộ KHCN thì thấy họ cũng có nhiệt tình nào đó, nhưng ý tưởng cụ thể thì chưa mấy rõ ràng. Tuy nhiên, tôi muốn nghĩ rằng BMRg của chúng tôi là mô hình khả dĩ để dự án FIRST có thể tham khảo. Còn những ý tưởng và đề nghị tôi nói trong hội thảo FIRST ở Vịnh Hạ Long tuần rồi thì tôi sẽ trình bày sau.

Một video clip về buổi lễ khai mạc lab:

Một vài hình ảnh và báo đưa tin:




Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

Sứ mệnh nghiên cứu của giáo dục đại học

Nhân dịp đầu năm, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn vài suy nghĩ của tôi về sứ mệnh của giáo dục đại học. Thật ra, đây là một bài nói chuyện nhân dịp Trường ĐH Tôn Đức Thắng được cấp 2 bằng sáng chế. Hôm đó, Trường có nhã ý mời tôi nói chuyện với tư cách là một giáo sư thỉnh giảng và giám đốc một lab nghiên cứu ở đây. Tôi vốn quen nói chuyện không có giấy tờ, nhưng lần này Trường nói phải có giấy tờ đàng hoàng (và bản tiếng Anh cho khách nước ngoài nữa) nên tôi phải soạn bài nói chuyện nghiêm chỉnh. Bây giờ thì việc đã xong nên tôi có thể post lên đây để chia sẻ cùng các bạn.
NVT

 *****


Sứ mệnh nghiên cứu của giáo dục đại học
(Bài nói chuyện tại ĐH Tôn Đức Thắng, 8/2/2015)


Kính thưa quí khách,
Kính thưa quí đồng nghiệp,

Tôi rất vinh hạnh có mặt tại đây, ngày hôm nay, để chia sẻ niềm vui và chúc mừng Trường Đại học Tôn Đức Thắng vừa được Cục quản lí bằng sáng chế Hoa Kì (USPTO) cấp bằng sáng chế đầu tiên, và được “gắn sao”. Đây là một thành tựu đáng tự hào của một trường đại học "trẻ" và đang trong thời kì mà nền giáo dục còn nhiều dao động và khó khăn.

Tôi được ban tổ chức mời phát biểu nhân dịp này, với tư cách là một cố vấn của Trường, một giáo sư thỉnh giảng, và một người đang điều hành một nhóm nghiên cứu tại Trường. Tôi suy nghĩ và tự hỏi mình sẽ nói gì nhân ngày vui này, và tôi nghĩ có lẽ đây là dịp để tôi chia sẻ cùng các bạn những suy nghĩ của tôi về sứ mệnh của giáo dục đại học. Đây là một vấn đề không mới, nhưng vẫn còn giá trị thời sự ở nước ta.

Sứ mệnh của giáo dục đại học

Theo tôi, sứ mệnh của giáo dục đại học là theo đuổi 3 lí tưởng: sáng tạo ra tri thức mới, chuyển giao tri thức và kĩ năng đến sinh viên, phụng sự xã hội. Sáng tạo ra tri thức mới qua nghiên cứu khoa học gần như là một căn cước tính của một thiết chế xã hội có danh xưng "đại học". Chuyển giao tri thức và kĩ năng được thực hiện qua giảng dạy, được xem như là một sứ mệnh mặc định của đại học. Kĩ năng dĩ nhiên không chỉ đơn thuần là kĩ thuật và công nghệ, mà còn là kĩ năng sống. Đại học là một thiết chế xã hội, và không thể đứng ngoài xã hội. Vì thế, một sứ mệnh quan trọng của đại học là phục vụ cho cộng đồng, quốc gia, qua cố vấn, phản biện, và góp phần chuyển giao công nghệ.

Tôi muốn nói thêm về sứ mệnh nghiên cứu của đại học. Nghiên cứu khoa học đã trở thành một lí tưởng cốt yếu, một mục tiêu mang tính mặc định của giáo dục đại học hiện đại. Như tôi nói ở trên, một sứ mệnh quan trọng của đại học là sáng tạo ra tri thức mới, mà tri thức mới chỉ được sáng tạo qua nghiên cứu khoa học. Tri thức dẫn đến cách tân về công nghệ và kĩ nghệ. Do đó, bất cứ nước nào trên thế giới đều nhận thức rằng đại học nghiên cứu là chìa khóa, là tài sản quan trọng của nền kinh tế tri thức trong thế kỉ 21.

Đối với đại học, nghiên cứu khoa học còn có một ý nghĩa rất thực tế: đó là vị trí trên trường quốc tế. Hiện nay, chưa có đại học nào của Việt Nam nằm trong danh sách các đại học hàng đầu thế giới. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào danh sách 100 hoặc 200 đại học hàng đầu thế giới, chúng ta thấy đặc điểm chung là gì? Xin trả lời ngay: là năng lực nghiên cứu khoa học. Tôi đã bỏ công phân tích và đi đến kết luận rằng nghiên cứu khoa học đóng góp 60% vào vị trí của một đại học trong các bảng xếp hạng đại học toàn cầu.

Nghiên cứu khoa học

Năng lực nghiên cứu khoa học thường được thể hiện qua công bố quốc tế. Thật vậy, trên thế giới, người ta dùng số lượng và chất lượng công bố quốc tế để đánh giá và xếp hạng các quốc gia trên trường khoa học. Trong năm 2014, số liệu của Viện thông tin khoa học Hoa Kì (ISI) cho thấy Việt Nam công bố được 2327 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế. Con số này tăng gần gấp 2 so với 5 năm trước. Đó là một tin mừng. Nhưng con số đó chỉ mới so sánh với thời gian trước, chúng ta phải biết mình đang ở đâu trong khu vực. Xin trả lời ngay rằng con số công bố quốc tế của VN chỉ bằng 1/3 của Thái Lan, 1/4 của Malaysia và 1/5 của Singapore. Như vậy, so với các nước trong vùng, năng suất khoa học của VN nói chung còn kém.

Nhưng đó không hẳn là một tin buồn, mà phải xem đó là một cơ hội để phấn đấu. Phấn đấu phải xuất phát từ các đại học. Trường đại học Tôn Đức Thắng sở dĩ được công nhận 3 sao cũng nhờ vào một phần qua công bố quốc tế. Trong 5 năm qua, Trường đã công bố được khoảng 110 công trình khoa học. Điều đáng nói là gần 46% số này được công bố chỉ trong năm 2014. Khoảng 60% công bố quốc tế của đại học Tôn Đức Thắng là do nội lực. Nói như thế để thấy rằng một trường còn “trẻ” nhưng đã có thành tựu như thế là đáng tự hào, và có xu hướng phát triển nhanh.

Nhưng chúng ta không bao giờ được tự mãn. Thành tích về công bố quốc tế chỉ mới là bước đầu, căn bản của một đại học. Khía cạnh quan trọng hơn là chất lượng nghiên cứu. Một trường đại học có thể có hàng ngàn nghiên cứu được công bố hàng năm, nhưng nếu chỉ công bố trên những tập san "làng nhàng", hoặc chẳng ai đề cập đến, hoặc chẳng đóng góp gì đáng kể cho chuyên ngành, thì chỉ là một đống giấy vô nghĩa. Do đó, cần phải quan tâm đến chất lượng nghiên cứu và tác động của nghiên cứu. Khoa học khuyến khích suy nghĩ đến những vấn đề lớn, những tầm nhìn dài và xa. Nên tránh những đề tài tủn mủn, những đề tài "ăn theo" vốn rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu, nhưng phải là nghiên cứu tốt, nghiên cứu có lí do chính đáng

Hợp tác và xây dựng nội lực

Tôi nghĩ có "sao" là một thành tựu quan trọng và đáng kể. Nhưng quan trọng hơn là duy trì được vị trí sao đó. Thật ra, thách thức trong tương lai không chỉ là duy trì, mà còn phát triển và qua đó nâng cao vị trí của trường. Chúng ta cần phải làm nhiều việc để duy trì và phát triển. Nhưng tôi nghĩ ngay đến 2 việc chính: hợp tác nghiên cứu khoa họcxây dựng nội lực.

Hợp tác trong nghiên cứu khoa học có thể ví von như là những dòng chảy khoa học. Khoa học ngày nay là một nỗ lực tập thể. Cái ngày mà khám phá xuất phát từ một cá nhân nhà khoa học đã lùi vào dĩ vãng rất xa xăm. Chúng ta thấy rằng ngày nay, các giải thưởng Nobel thường được trao cho một nhóm nhà khoa học, chứ không phải chỉ một nhà khoa học độc nhất như những năm đầu thế kỉ 20.

André Gide, một nhà văn danh tiếng người Pháp (Giải Nobel Văn học 1947), từng nói rằng nghệ thuật là một sự hợp tác giữa Thượng đế (hay thần thánh) và người nghệ sĩ. Trong khoa học không có thượng đế hay thần thánh, nhưng tôi có thể nói rằng khoa học cũng là một sự hợp tác, nhưng hợp tác giữa người với người.

Khi chúng ta làm việc chung với nhau, chúng ta xây dựng tầm nhìn cho chính mình, nhưng quan trọng hơn là tầm nhìn của người khác sẽ bổ sung vào tri thức của chúng ta, và khi cả hai tầm nhìn được hợp lại chúng ta có một cái nhìn đầy đủ hơn và tốt hơn. Chính nhờ vào hợp tác mà biên cương khoa học mới lúc nào cũng được mở rộng. Ngược lại, không có hợp tác, chúng ta sẽ bị hạn hẹp về tầm nhìn, và khoa học khó có cơ may phát triển.

Nhưng tôi phải mở ngoặc để nói thêm rằng hợp tác nghiên cứu là để chúng ta xây dựng nội lực, chứ không phải lệ thuộc. Tôi nghĩ đây là một khía cạnh quan trọng cần phải lưu ý, đặc biệt đối với các đại học ở Việt Nam. Tại sao tôi nói thế? Trong khoảng 10 năm trở lại đây, khoảng 75-80% các công trình khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học trong danh mục ISI và Scopus là do hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài. Nói cách khác, các đồng nghiệp nước ngoài đến VN, đề ra ý tưởng, và có thể cả tài trợ cho nghiên cứu, và do đó, không ngạc nhiên họ đóng vai trò chủ đạo trong công bố quốc tế. Nói các khác, nếu không có sự hỗ trợ hay hợp tác với họ, con số công bố quốc tế của VN không đáng kể. Một cách khác để hiểu là: khoa học VN đang trong tình trạng hay có nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài.

Tôi nghĩ quí vị và đồng nghiệp đồng ý với tôi là chúng ta cần hợp tác, và không nên lệ thuộc. Để không lệ thuộc, các đại học VN cần phải xây dựng nội lực. Xây dựng qua năng lực nghiên cứu và hợp tác. Mỗi một dịp hợp tác cần phải biến thành một cơ hội để học hỏi và rút kinh nghiệm. Nếu hợp tác mà không học hỏi được gì thì có thể xem như là một thất bại. Nên xem hợp tác khoa học để không trở thành lệ thuộc vừa là mục tiêu, vừa là thành quả.

Một sự thật đơn giản là: sự thịnh vượng của một quốc gia phụ thuộc vào nhân tài của quốc gia đó. Tương lai ca Vit Nam trong thế kỉ này và mai sau tuỳ thuc vào mi công dân được trang b kiến thc, kĩ năng, và đo đc cho mt cuc sng phong phú và trn vn trong mt xã hi dân chủ, công bng, và bác ái. Giáo dc đại học đóng vai trò trung tâm cho lí tưởng đó, qua nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức, và phụng sự xã hội.

Thành thật cám ơn quí vị và quí đồng nghiệp đã có mặt ngày hôm nay.


English version 
Research Mission of University Education
 (Talk given at the Ton Duc Thang University, February 8, 2015)


Ladies and gentlemen,
Friends and colleagues,

It is my pleasure to be here today to share the good news with you. As you all know, the Ton Duc Thang University is conferred a 3-star status university. Moreover, the USPTO has granted the first 2 patents to the University for its invention in health technology. It is also the first Vietnamese university that has owned US based patents. These latest  developments represent a significant achievement of a relatively “young” university with so many difficulties and challenges.

For this special occasion, the organizing committee has kindly asked me to speak as an advisor, visiting professor, and director of a research laboratory. I have thought long and hard on what I would say, and I decided to share with you my perspectives on the mission of university education. I must admit that this is not a new theme, but it is highly relevant to the current climate of higher education in Vietnam.

Missions of university education

To me, university education pursues three key missions: creation of new knowledge, student learning, and community engagement. University is where knowledge is created by original research. Student learning, an embedded mission of any university, includes not just acquiring core skills, but also challenging students' approach and view of the world, and sharing experience with other students. University is a social institution, and has the obligation to translate knowledge and learning to improve the welfare of communities and their citizens. Research, learning, and community services are 3 key missions of a university.

I would like to elaborate a little bit more on the research mission. To me, as an academic and a scientist, research is a cardinal value and a purpose of university education. As I mentioned above, research can generate new data which are then transformed into knowledge. Knowledge in turn helps innovate technology and industry. It is thus not surprising that many people would view university as a key asset for success in a knowledge economy in the 21stcentury.   

Research missions of university

For any modern university, research plays a very critical role in university ranking. I myself have spent some time to analyze the ranking data, and found that research output and impact contribute up to 60% of a university's relative position in many league tables. Indeed, a close reading of leading universities in league tables reveals a common denominator: they are all research oriented universities. At present, none of Vietnamese universities is in any list of world's top universities, because research output from Vietnamese universities is still very modest compared with comparable universities in the region.

We all know that the research capacity of a university is commonly assessed in terms of publication output and societal impact. Indeed, most league tables of leading universities use the two metrics for ranking. Data from the Thomson's Institute of Scientific Information indicate that in 2014, Vietnam produced 2327 papers in international peer-reviewed journals. This number represents a 2-fold increase compared with 5 years ago. That is a good news. However, we have to know where we are standing in the region, and I am afraid to say that our position is not that high. Currently, the research output of Vietnam is only 1/3 of Thailand, 1/4 of Malaysia and 1/5 of Singapore. Some may see that position as a bad news, but I would like to see it as an opportunity for further building research capacity.

The recognition of 3-star status for Ton Duc Thang University is also in part based on its research base.  During the past 5 years, the University has published around 1110 original papers in international peer-reviewed journals. Approximately 45% of this output was achieved in 2014 alone – suggesting a rapid upward trajectory. More importantly, about 40% of the output was resulted from national and international collaboration – suggesting an effort of internationalization of the University.

We should never be complacent. A good publication output is only the beginning for a research university. A more important aspect of research is quality / impact. A university can publish thousands of papers in academic journals, but if most of the papers are in mediocre journals and/or have no citations, then those papers are more or less meaningless. We have to pay attention to research quality and impact. We have to think big and think outside the box. We need more research, better research, but research done for the right reasons


Collaboration and capacity building

Being conferred 3star status is a significant achievement. However, it is even more important to maintain the status. Actually, one of the University's challenges in the future is to improve the rating. We must work harder to maintain and to advance the University's status in the future. There are many things we can do, but I am thinking of collaboration in research, and capacity building.

Scientific collaboration is commonly seen as a norm, even a virtue in modern research enterprise. Scientific research nowsadays is very much a collaborative endeavor, with many colleagues working on the same project. I myself collaborate with more than 20 colleagues from Asia, Europe, and the US. "Big Science" has arrived, and the image of a lonely genius working in isolation is history. Modern science is increasingly complex, and the complexity calls for collaboration from scientists of multiple disciplines. We have seen that in recent time, Nobel prizes are commonly given to teams of researchers.

There are good reasons to collaborate in scientific research. One of my favorite authors, André Gide, used to say that "Art is a collaboration between God and the artist". In the same vein of thinking, I think we can say that scientific research is a collaboration between men. Research insights can be gained from collaboration, and such insights complements the knowledge of individual scientists. My practical experience suggests that collaboration also enhances research productivity. Scientific collaboration always open a new frontier for research, and lack of collaboration always limits the opportunity for development.

However, I must add that for universities in developing countries, research collaboration is a way to buildresearch capacity. To me, research capacity is an infrastructure of science for a country. A country with strong research capacity is less likely to be dependent on other countries to develop science. During the past 10 years, between 75 and 80% of Vietnamese scientific output have been resulted from international collaboration. While collaboration is a good endeavor, I am concerned that the high level of collaboration puts the country at great risk of scientific dependency.

I think we all agree that Vietnamese universities need to increase national and international collaborations in scientific research. However, collaboration should be done for the purpose of capacity building, not just simply improving research productivity. Acquiring new experience and reducing dependency should be seen as endpoints as well as outcomes in any research collaboration.

A simple fact is that talent matters. The prosperity of Vietnam really comes from her citizens with talent and skill that are equipped by universities. Thus, for a successful knowledge-driven economy, research, learning and community engagement should constitute the key missions of the Vietnamese university education.

Thank you very much for your attention, and thank you all for being here.

Thứ Bảy, 14 tháng 2, 2015

Ghi cuối năm Giáp Ngọ (2/2015)


Tôi vừa có một chuyến công tác đúng 1 tuần ở bên VN, và hôm nay mới về đến nhà, nên còn "jet lag" và chông chênh lắm. Cũng như bao lần trước, tôi bận túi bụi từ lúc đến cho đến thời điểm lên máy bay, và vì thế rất ít có thì giờ đọc báo và viết lách gì. Hôm nay, tĩnh tâm lại và ghi chép vài dòng để gọi là "chia sẻ" cùng các bạn, cũng là lời giải thích tại sao tôi vắng bóng trên blog trong thời gian qua.


Những ngày cuối năm – giáp Tết ở VN rất nhộn nhịp. Các công sở Nhà nước, các công ti, các đại học, v.v. đều có tổng kết cuối năm. Năm nay, Trường ĐH Tôn Đức Thắng tổ chức một buổi họp cuối năm đầy ý nghĩa, và tôi có dịp tham dự với vai trò giáo sư thỉnh giảng và trưởng nhóm nghiên cứu. Trường có 3 lí do để ăn mừng: (1) được Tổ chức kiểm định và xếp hạng đại học QS công nhận là đại học 3 sao; (2) được Cục Sáng chế của Mĩ (USPTO) cấp 2 bằng sáng chế liên quan đến công nghệ y tế; và (3) quan trọng hơn là được Thủ tướng Chính phủ trao quyền tự chủ. Do đó, Trường tổ chức một buổi lễ, mà tôi đoán là vừa là một tổng kết cuối năm, nhưng cũng có thể xem là một chương trình … PR.

Gắn sao cho đại học

Nhiều người hỏi tôi việc gắn sao có ý nghĩa gì, và khác nhau như thế nào với xếp hạng. Xin nói ngay rằng gắn sao không phải là xếp hạng đại học. Gắn sao là một cách kiểm tra chất lượng giáo dục, một hình thức rating, so sánh thực tế với một bộ tiêu chuẩn do QS đề ra. Còn rankinghay xếp hạng là so sánh giữa đại học này với đại học khác. Trường ĐH Tôn Đức Thắng, cũng như tất cả các đại học VN, chưa tham gia xếp hạng vì tự biết chưa đủ điều kiện.

Về gắn sao hay rating, họ dựa trên khoảng 50 tiêu chuẩn, và có thể tóm tắt trong 4 nhóm tiêu chí như nghiên cứu khoa học, giảng dạy, cơ sở vật chất, dịch vụ dành cho sinh viên, v.v. Họ (QS) phải kiểm tra số liệu cụ thể, có khi họ làm survey sinh viên để xác định chứ không nghe báo cáo của Trường. Rất nhiều trường đại học trên thế giới tham gia chương trình này. Nói chung các đại học nổi tiếng ở các nước tiên tiến thường là đại học 4-5 sao (5 sao là tối đa). Ví dụ như ĐH Quốc Gia Úc, Monash, UNSW, Cornell, Harvard, v.v. đều là đại học 5 sao. Các đại học Á châu thường là 3 sao, nhưng cũng có đại học nổi tiếng ở Á châu có 5 sao.

Ở Việt Nam, Đại học FPT tham gia chương trình rating trước hết và được công nhận 3 sao. Trường ĐH Tôn Đức Thắng lần này cũng được công nhận 3 sao, tương đương với ĐH FPT của Việt Nam, và vài đại học ở Thái Lan và Mã Lai. Tôi nghĩ việc gắn sao là một dịp để Trường biết mình đang ở đâu về chất lượng, cũng có ý nghĩa quan trọng. Nhất là biết mình đang còn thiếu cái gì, yếu cái nào là rất cần thiết để phát triển trong tương lai.

Bằng sáng chế

Bằng sáng chế là một thể hiện khả năng chuyển giao công nghệ và sáng tạo. Trước đây, tôi từng viết rằng VN cần phải chú ý đến việc đăng kí bằng sáng chế với các tổ chức quốc tế (đặc biệt là USPTO), nhưng phải một thời gian mới có người lắng nghe.

Trường ĐH Tôn Đức Thắng là cơ quan Nhà nước đầu tiên của VN được Cục USPTO Mĩ cấp bằng sáng chế. Trên thế giới, có vài nơi cấp bằng sáng chế, nhưng bằng sáng chế do USPTO cấp được xem là danh giá nhất, uy tín nhất (có lẽ giống như được công bố trên tập san khoa học danh giá).

Suốt 50 năm qua, VN chỉ có 9 bằng sáng chế của USPTO, nhưng 7 bằng là của các công ti nước ngoài hay của Việt kiều làm tại VN. Trường ĐH Tôn Đức Thắng là trường đại học đầu tiên của VN được USPTO cấp 2 bằng sáng chế.

Có vài tờ báo dè dặt (hay nghi ngờ) hỏi tôi về sự kiện đó. Tôi chỉ nói sự thật là việc đăng kí bằng sáng chế là một quá trình khá nhiêu khê. Hình như ở VN chưa có (?) luật sư chuyên về bằng sáng chế, nên các nhà khoa học VN chịu nhiều thiệt thòi. Qua sự việc này, tôi có cảm giác là sau những cú "lừa" trước đây, bây giờ báo chí tỏ ra dè dặt khi đối diện với một sự thật, có khi tỏ ra không tin! Tôi rất thông cảm cho giới báo chí, nhưng ở đây bằng sáng chế của Trường tất cả là do người Việt nghiên cứu, thiết kế, và làm thủ tục để được công nhận. Tôi nghĩ phải nói đó là một thành tựu đáng khuyến khích.

Tôi có nói với báo chí rằng thành tựu của Trường có thể nhân rộng ra cho các trường khác. Nếu ĐH Tôn Đức Thắng làm được thì tôi nghĩ các trường khác cũng làm được. Do đó, nên nghĩ tích cực hơn thay vì xem đó là một cạnh tranh hay gì gì đó.

Diện kiến vài VIP

Như tôi nói trên, nhân dịp được gắn sao và cấp bằng sáng chế, nên Trường tổ chức buổi meeting cuối năm. Đến dự cho rất nhiều quan khách là quan chức cao cấp của Tổng liên đoàn lao động, đại diện một số bộ, và các quan chức thuộc liên đoàn lao động từ các tỉnh. Ngoài ra, còn có khách mời từ các đại học đối tác bên Đài Loan, kể cả 2 đại học quốc gia Đài Loan mà tôi quên tên.

Tiếp khách nước ngoài ở Trường ĐH Tôn Đức Thắng  


Tôi đóng vai trò đại diện bất đắc dĩ cho Trường để tiếp khách. Vì buổi sáng, anh hiệu trưởng và ban giám hiệu rất bận tiếp các quan chức cao cấp và trả lời báo chí, nên họ nhờ tôi đứng ra đại diện tiếp khách nước ngoài. Dĩ nhiên, với khả năng ngoại giao và tiếng Anh, tôi nhận lời ngay. Một khổ tâm của tôi trong vai trò này là phải bắt tay cả 20 người. Bắt tay một vài người thì dễ, nhưng nhiều người quá cũng … mệt, vì còn phải nói một câu chào mừng. Chẳng lẽ chỉ lặp lại 1 câu thì chán quá, nên tôi phải suy nghĩ nói khác. Tôi nhìn khách rồi nhẫm tính độ tuổi và vai vế, rồi nói một câu xã giao. Nhưng chưa hết, còn có phần nói vài câu chào mừng các đồng nghiệp Đài Loan, Đức và Tiệp đến chia vui cùng Trường. Có người sau đó hỏi tôi đã về VN bao lâu rồi, vì họ nghĩ tôi là Việt kiều hồi hương. Nói chung, tôi thấy hài lòng mình đã hoàn tất nhiệm vụ được giao.

Đến khi xuống hội trường dự buổi lễ chính, tôi được sắp xếp ngồi cạnh anh chàng lãnh sự quán Hoa Kì tên là Cameron D. Thomas-Shah. Anh này đến đây để đại diện USPTO trao bằng sáng chế cho Đại học Tôn Đức Thắng, và nói vài câu ngoại giao. Anh ta đang học tiếng Việt, nên cũng "làm" được vài câu thông thường. Anh ta nói rất thích món ăn Việt Nam, nhất là gỏi cuốn và phở. Cái gì anh ta nói là ngoại giao, nhưng nói về thức ăn tôi tin rằng anh ta nói thật lòng.

Với phó lãnh sự Mĩ Cameron Thomas-Shah

Anh chàng này dù có chức danh khá cao, nhưng còn trẻ lắm, chỉ cỡ tuổi 30-35 là cùng. Sau khi trao đổi vài phút, anh ta biết tôi là cựu cư dân Mĩ, nên câu chuyện càng hào hứng hơn. Chúng tôi thậm chí nói đùa bằng ngôn ngữ đặc thù Mĩ, và cười ha hả, làm mọi người chung quanh chẳng hiểu tụi tôi vui cái gì. Anh ta khoe với tôi là trước khi nhận nhiệm vụ ở VN anh đã từng đi qua 20 quốc gia, từng vác ba lô đi bụi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, từng ăn cơm và ra đồng với nông dân miền Tây. Anh ta nói rằng rất thích món ăn Việt Nam, đặc biệt là gỏi cuốn và phở.

Dù nói chuyện hào hứng, nhưng anh ta rất giữ kẽ, lúc nào cũng tỏ ra rất ngoại giao. Tôi thử test anh ta xem có biết tình trạng vài blogger bị bắt giam, anh ta nói biết, nhưng ngay sau đó anh ta nói "everything will be ok" (mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi). Tôi hỏi anh ta nghĩ gì về tương lai quan hệ Việt – Mĩ, anh ta hào hứng lên và thao thao bất tuyệt cho rằng hai nước đã và sẽ là bạn tốt với nhau. Tôi định ngạo anh ta rằng Việt Nam cũng xem Tàu là "bạn", nhưng nghĩ lại thì không nên nói. (Chứng tỏ tôi cũng tự mình kiểm duyệt!) Anh ta chỉ ra rằng con rể của thủ tướng là công dân Mĩ! Anh ta còn chỉ tôi và nói rằng "đấy, như ông đây cũng là cầu nối tuyệt vời giữa Việt Nam và thế giới bên ngoài đó". Tôi nghĩ thầm trong bụng "Thằng cha này khôn thật", nói câu gì cũng chẳng làm ai phật lòng.

Sau ngài phó lãnh sự Mĩ phát biểu, tôi được mời nói chuyện với tư cách là giáo sư thỉnh giảng của Trường. Tôi nói bằng tiếng Việt, nhưng bản tiếng Anh thì được gửi cho khách nước ngoài đọc. Tôi nói về sứ mệnh của giáo dục đại học, đặc biệt nhấn mạnh sứ mệnh nghiên cứu khoa học. Tôi cảnh báo rằng khoa học VN đang có nguy cơ bị lệ thuộc nước ngoài vì tỉ lệ "ngoại lực" còn quá cao trong một số ngành khoa học. Tôi kết luận rằng "Một sự thật đơn giản là sự thịnh vượng của một quốc gia phụ thuộc vào nhân tài của quốc gia đó. Tương lai của Việt Nam trong thế kỉ này và mai sau tuỳ thuộc vào mỗi công dân được trang bị kiến thức, kĩ năng, và đạo đức cho một cuộc sống phong phú và trọn vẹn trong một xã hội dân chủ, công bằng, và bác ái. Giáo dục đại học đóng vai trò trung tâm cho lí tưởng đó, qua nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức, và phụng sự xã hội."

Diện kiến Thủ tướng Chính phủ  

Có lẽ một điểm "final" quan trọng là diện kiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trước buổi lễ trao bằng sáng chế, tôi có đã nghe râm rang rằng ông Thủ tướng có thể ghé thăm, nhưng không ai khẳng định được. Mãi đến sáng mới có tin là ông sẽ đến khoảng 11 giờ, tức đúng lúc buổi lễ sắp kết thúc.

Thế là sau bài nói chuyện của tôi, ban tổ chức dẫn tôi đi lòng vòng để vào phòng họp với Thủ tướng. Vào phòng họp, tôi đã thấy đông nghẹt báo chí, và các quan chức và giáo sư trong Trường. Tìm thấy bảng tên của tôi trên bàn, tôi ngồi vào ghế đã xếp sẵn. Ông Thủ tướng ngồi ghế chủ toạ, bên cạnh ông là Bộ trưởng chủ nhiệm VPCP Nguyễn Văn Nên, bên trái là ông Đặng Ngọc Tùng của Tổng liên đoàn Việt Nam. Ông đưa mắt nhìn chung quanh, nhưng không cười. Theo chương trình tiếp kiến, ông hiệu trưởng Lê Vinh Danh báo cáo thành tựu của Trường một cách ngắn gọn, và ông Thủ tướng sẽ "cho ý kiến".

Chụp hình với VIP

Tôi chú ý thấy ông Thủ tướng lắng nghe một cách chăm chú. Tay ông cầm viết ghi xuống giấy những thông tin hay điểm quan trọng. Thỉnh thoảng ông cắt ngang báo cáo của hiệu trưởng để hỏi về những số liệu cụ thể như lương bổng của giảng viên, và ông so sánh với lương bổng của nhân viên quản lí. Ông đòi những thông tin cụ thể, chứ không phải chung chung hay "chém gió". Ông tỏ ra rất nhạy với những thông tin định lượng, nên không thể "qua mặt" hay "nổ" được với ông. Ví dụ như hỏi về liên kết đào tạo, ông hỏi "liên kết" có nghĩa gì, bằng cấp có được nước ngoài công nhận, sinh viên ra trường tìm được việc làm hay không và tỉ lệ là bao nhiêu, v.v. Ông nói rằng không thể kêu gọi người ta yêu nước bằng nước lã và không khí. Nói chung, một cách công bằng, tôi phải nói ông là một người thông tin, nhanh trí, và khá thân thiện.

Buổi gặp diễn ra khoảng 1 giờ, và sau đó, ông kêu mọi người lên chụp hình làm kỉ niệm. Thú thật, tôi không phải típ người thích "photo-op", nhất là chụp hình với VIP, vì tôi không bao giờ cần đến họ để tạo cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Tôi còn đang ngần ngừ, nhưng ông Thủ tướng ngoắt tay ra hiệu lên chụp hình, thì làm sao tôi dám từ chối. Thế là tôi có một bô hình với ngài Thủ tướng. Oách thật!

Retreat

Chuyến về VN lần này, tôi còn có một nhiệm vụ rất quan trọng khác là làm retreatcùng với các anh chị trong Trường ĐH Tôn Đức Thắng. Ở VN, "văn hoá retreat" trong đại học vẫn còn là cái gì quá mới, nhưng ở ngoài này thì là chuyện khá bình thường. Nhiều bạn ngại đó là "kiểm điểm", nhưng tôi trấn an các bạn ấy rằng tôi rất ghét cái văn hoá kiểm điểm, vì tôi thấy cách làm như thế rất ư là man rợ, rừng rú, và thiếu tính nhân văn. Chúng ta phải có cách tiếp cận khác, và đó là … retreat. 

Retreat – tôi chưa biết dịch sang tiếng Việt là gì – là một hội nghị Diên Hồng của đại học, nhưng hội nghị trong kín đáo. Thông thường, chúng tôi chọn một địa điểm lí tưởng, nhưng hẻo lánh, không điện thoại, không fax, không internet (rất khó thời nay) để ngồi xuống và phân tích các vấn đề trong năm qua, rồi đề ra định hướng cho năm tới. Giới doanh nghiệp hay làm retreat, nhưng trong đại học thì còn tương đối mới.

Tôi muốn đem văn hoá retreat về cho đại học VN, và Trường ĐH Tôn Đức Thắng là nơi mà ban giám hiệu rất nồng nhiệt tiếp nhận ý kiến này. Chúng tôi lên chương trình khá chi tiết, và cố gắng tạo môi trường thân thiện cho tất cả các đồng nghiệp. Tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của các khoa trưởng, vì tôi nghĩ các khoa trưởng như là tướng ngoài trận mạc, và phải cho họ có quyền, chứ không cho mấy người ngồi văn phòng chỉ tay năm ngón ra lệnh.  Tôi nghĩ các đại học VN đã sai lầm khi để cho các phòng ban chi phối quá nhiều đến hoạt động đại học. Do đó, tôi đề nghị phải trao quyền và trách nhiệm cho những người đứng trước "đầu sóng ngọn gió" trong giáo dục đại học, và đó là các khoa. Và, để thực hiện định hướng này, cần phải có một hội nghị diên hồng để chuẩn bị tinh thần.

Tôi không thể nói trong retreat chúng tôi bàn gì và sẽ làm gì hay cách làm ra sao, vì đó là tài sản tri thức của chúng tôi. Nhưng tôi có thể nói rằng qua retreat, chúng tôi nhận dạng hàng loạt vấn đề để khắc phục, thấy được cơ hội để vươn lên, và cũng nhận ra một số mối đe doạ. Tôi hi vọng rằng trong năm con Dê, Trường sẽ có nhiều bước đi ngoạn mục mới.

Tôi nghĩ 2 ngày retreat xảy ra trong thời điểm rất lí tưởng, vì Trường vừa được Thủ tướng trao quyết định quyền tự chủ. Có lẽ Trường ĐH TĐT là trường đầu tiên được trao quyền tự chủ. Vì thế retreat là cơ hội tốt để suy nghĩ phải làm gì để thực hiện quyền quan trọng này.

Họp nhóm

Sau buổi retreat là ngày tôi gặp lab nghiên cứu cơ xương của chúng tôi. Năm vừa qua, chúng tôi đã tiến hành lập một lab nghiên cứu ở Trường ĐH TĐT. Chúng tôi may mắn được Trường phê chuẩn trang thiết bị hiện đại, để chúng tôi có thể trở thành một lab hàng đầu ở châu Á và có tiếng nói nặng kí trên trường quốc tế.

Chúng tôi sắp triển khai một nghiên cứu rất qui mô và toàn diện về loãng xương và thấp khớp.  Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ thu thập rất nhiều dữ liệu mà chưa nghiên cứu nào ở VN có thể làm được hay nghĩ đến. Chúng tôi sẽ có một ngân hàng dữ liệu nhân trắc cho người Việt Nam để chẩn đoán béo phì mà chưa từng có trước đây. Chúng tôi sẽ thiết lập một ngân hàng dữ liệu về gen cho người Việt, bằng công nghệ số 1 hiện nay trên thế giới là WGS hay whole genome sequencing. Qua nghiên cứu này, chẳng những cung cấp những dữ liệu vô giá cho lâm sàng, mà còn mở ra một hướng mới cho ngành bioinformatics và khoa học tính toán cho Trường và cho VN. 

Một khó khăn là tìm kinh phí. Nếu ở một nước có nền khoa học tốt và có chuyên gia có trình độ thích hợp thì dự án của chúng tôi sẽ được chào đón tốt, nhưng ở VN chẳng có bao nhiêu người hiểu hết ý nghĩa của dự án (không phải do chúng tôi giải thích kém, mà do họ không nghĩ đến và cũng chưa đủ kinh nghiệm khoa học để đánh giá) nên chúng tôi đụng phải những bức tường cứng. Những người này chỉ quen với những đề tài loại tủn mủn, những đề tài có hiệu quả tuyệt vời để kìm hãm VN lúc nào cũng lạc hậu và "lẹt đẹt" theo sau thiên hạ; họ chưa quen đến suy nghĩ "big science" hay ý tưởng lớn. Cộng với cơ chế thiếu minh bạch, nên chúng tôi thấy rất khó khăn để đối thoại. Nhưng chúng tôi không đầu hàng, mà vẫn phải tranh thủ mọi nguồn và mọi nơi để thực hiện cho được dự án. Tôi cố gắng thuyết phục nhóm nghiên cứu là chúng ta sẽ cố gắng hết mình.

Mù thông tin

Thời gian ở trong nước thì tôi gần như bị mù thông tin. Các trang web tôi hay đọc đều bị chận. Dĩ nhiên, tôi có thể vượt tường lửa, nhưng tôi không muốn làm thế và cũng chẳng có thì giờ. Các tờ báo ở VN ngày nay thì rất "nhạt", và chẳng có nhiều thông tin đáng xem, nên tôi đành chấp nhận mù thông tin. Phải nói là mù thông tin làm mình rất khó chịu, vì câu hỏi "thế giới có gì mới" cứ lởn vởn trong đầu mà không cách gì trả lời được.

Nhưng trong một buổi "trà dư tửu hậu", tôi mới biết Bọ Lập được tại ngoại! Rồi ngay sau đó lại nghe tin anh Hồng Lê Thọ vừa được tại ngoại. Thật là một tin vui. Nhưng tôi nghĩ Nhà nước sẽ còn được hoan nghênh hơn bằng cách tỏ lòng nhân ái cho anh Ba Sàm và Minh Thuý được hưởng cái Tết ở gia đình. Nói chuyện với vài bạn trong đại học, ai cũng quan tâm đến các "nhà báo" này, và qua đó mới thấy họ nổi tiếng như thế nào trong giới có học.

Có một điều làm tôi không vui, nếu không muốn nói là buồn, là thái độ của những người Việt kiều đã về nước lâu. Họ là những người có học khá (có bằng tiến sĩ), từng ở các nước phương Tây tôn trọng tự do tư tưởng và tự do ngôn luận. Nhưng chẳng hiểu sao khi về VN họ lại có vẻ rất … bảo thủ. Họ nói chuyện chẳng khác gì giới tuyên truyền, tức là chống Mĩ và chống phương Tây đến cùng. Tôi có khi tự hỏi hay là họ thử mình, hoặc họ đã quên tinh thần tự do tư tưởng, hoặc họ đã bị tẩy não. Tôi không muốn tranh luận với họ, mà chỉ ghi nhận ý kiến của họ để suy nghĩ thêm.  Có người tuy không chống Mĩ nhưng lại tỏ ra rất sợ sệt, không dám thốt lên lời nói mang tính phản biện Nhà nước. Mà, có gì ghê gớm đâu chứ, chỉ là chuyện bất công xã hội và bất cập trong giáo dục và đào tạo mà họ thấy rõ ràng nhưng không dám nói. Tôi có cảm giác họ nhu nhược (nếu ở nước ngoài tôi dùng chữ "hèn") hơn rất nhiều so với đồng nghiệp trong nước, nhất là giới trí thức Hà Nội có tinh thần phản biện rất cao. Thôi thì mỗi người một hoàn cảnh, nên tôi cũng không dám phán xét về họ, chỉ ghi nhận ở đây vài cảm nhận cá nhân mà thôi.

Tôi nghĩ nếu chính quyền cứ ngăn chận thông tin như hiện nay thì chỉ kéo đất nước giật lùi mà thôi. Ngài Thủ tướng đã nói (và tôi nghĩ là đúng) rằng không thể ngăn chận thông tin trên mạng; thay vì ngăn chận, tại sao không cung cấp thông tin kịp thời cho công chúng. Nếu có chính nghĩa thì chẳng việc gì phải sợ và ngăn chận thông tin.